Mục lục
Một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất trong lịch sử, Stephen Hawking không phải ngẫu nhiên mà có được sự nổi tiếng như vậy. Các lý thuyết mà ông phát triển, chẳng hạn như lý thuyết về lỗ đen và không-thời gian, là những đóng góp cơ bản cho cộng đồng khoa học. Hơn thế nữa: anh ấy đã cố gắng khơi dậy sự quan tâm và giải thích các nguyên tắc vật lý và vũ trụ học cho khán giả bình thường mà chưa ai từng làm trước đây.
Để tôn vinh cuộc đời và hành trình của Hawking, chúng tôi đã tập hợp dưới đây mọi thứ bạn cần biết về một trong những bộ óc vĩ đại nhất mọi thời đại.
Xem thêm: Profile tập hợp những bức ảnh phụ nữ thực thụ không quan tâm đến kỳ vọng của xã hội– Stephen Hawking: vĩnh biệt ngôi sao sáng nhất trong vũ trụ khoa học
Xuất thân, sự nghiệp và cuộc sống cá nhân
Stephen Hawking trong đời tốt nghiệp Đại học Oxford.
Stephen William Hawking sinh năm 1942 tại Oxford, Anh. Là con trai của một bác sĩ và một triết gia, ông được coi là một đứa trẻ phát triển sớm: ông không thích toán học, vì việc tìm kiếm kỷ luật quá dễ dàng, và được các bạn cùng trường gọi là Einstein. Mặc dù vậy, anh ấy không phải là một học sinh chuyên dụng và thường làm bài tập và bài tập về nhà mà không có bất kỳ ý thích nào.
Năm 17 tuổi, anh giành được học bổng theo học ngành vật lý tại Đại học Oxford. Anh ấy chọn khóa học này vì anh ấy muốn hiểu những câu hỏi hiện sinh, chẳng hạn như nguồn gốc của thế giới và cuộc sống con người. Sau khi tốt nghiệp, anh vào Trinity Hall College,Cambridge, với tư cách là một sinh viên thạc sĩ. Ở đó, ông học từ năm 1962 đến năm 1966. Một lần nữa, mặc dù không dành nhiều thời gian như các bạn đồng trang lứa, nhưng ông đã tốt nghiệp loại xuất sắc.
– Luận án tiến sĩ của Stephen Hawking về vũ trụ giãn nở được phát hành trực tuyến
Trong những năm tiếp theo, Hawking bắt đầu làm việc với tư cách là nhà nghiên cứu và giáo sư. Ông giảng dạy tại Đại học Gonville và Caius và chuyển qua Viện Thiên văn học, cho đến khi gia nhập Khoa Toán ứng dụng và Vật lý lý thuyết, mà ông là thành viên từ năm 1979 đến 2009. Từ đó, ông trở thành giáo sư danh dự Lucasian tại Đại học Cambridge.
Hawking và Jane, người vợ đầu tiên của ông, trong những năm 1960.
Chính trong thời gian học thạc sĩ, Hawking đã gặp Jane Wilde, người vợ tương lai của ông. Hai người kết hôn năm 1965 và có ba người con: Robert, Lucy và Timothy. Vào những năm 70, nhà vật lý được mời đến làm việc tại Viện Công nghệ California và cả gia đình chuyển đến Hoa Kỳ. Kể từ đó, cuộc hôn nhân rơi vào khủng hoảng, dẫn đến ly thân năm 1990 và ly hôn năm 1995.
Hawking chuyển đến sống cùng Elaine Mason, một trong những y tá của ông và nhanh chóng kết hôn với cô. Hai năm sau, Jane trao nhẫn với nhạc sĩ Jonathan Jones, nhưng vẫn gần gũi với chồng cũ và công việc của anh ta.
– ‘Không có Chúa. Không ai chỉ huy vũ trụ’, Stephen Hawking nói trong cuốn sách mới nhất của mình
Nhưng điều thứ haiCuộc hôn nhân của nhà vật lý khá rắc rối. Vì liên tục xuất hiện với những vết bầm tím trên cơ thể, anh bắt đầu bị coi là nạn nhân của sự ngược đãi, mặc dù anh phủ nhận cáo buộc chống lại vợ mình. Công đoàn kết thúc vào năm 2006 và Hawking chuyển đến một ngôi nhà ở Cambridge, nơi ông sống với một gia sư cho đến ngày qua đời.
Câu chuyện đời thực của nhà vật lý đã được chuyển thể thành phim “The Theory of Everything” để chiếu rạp từ năm 2014. Phim có sự tham gia của Eddie Redmayne trong vai chính, bộ phim đã mang về cho anh giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. và Felicity Jones trong vai Jane Wilde.
Stephen Hawking đứng giữa Felicity Jones và Eddie Redmayne, diễn viên của “The Theory of Everything”, tại buổi ra mắt phim. London, 2014.
Cuộc chiến chống lại căn bệnh thoái hóa
Khi còn là sinh viên vật lý tại Đại học Cambridge, Hawking nhận thấy khả năng giữ thăng bằng và khả năng phối hợp vận động của ông bắt đầu kém đi một chút. bối rối. Anh ấy rất hay bị ngã và làm rơi đồ vật. Cho đến khi, sau khi bị ngã khi trượt patin, anh ấy đã không thể đứng dậy. Tại bệnh viện, anh trải qua một loạt các xét nghiệm và được chẩn đoán mắc bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) ở tuổi 21.
Căn bệnh này không thể chữa khỏi, thoái hóa và được đặc trưng bởi cái chết của các tế bào thần kinh chịu trách nhiệm kiểm soát các cử động của cơ thể. Nó khiến người mang nó mất khả năng nói, nuốt, cử động và thở trong thời gian ngắn.thời gian. Vì vậy, bác sĩ của Hawking chỉ cho ông sống thêm ba năm nữa.
– Bài báo cuối cùng của Stephen Hawking có thể dẫn đến việc khám phá ra một vũ trụ song song
Thật ngạc nhiên và như thể bằng một phép màu, ALS tiến triển chậm hơn tưởng tượng, cho phép nhà vật lý tiếp tục sống, nhưng với một số hạn chế vận động. Sau nhiều năm, tình trạng của Hawking bắt đầu xấu đi. Năm 1970, ông ngừng đi bộ và bắt đầu sử dụng xe lăn và xe đẩy điện.
Cặp đôi Jane và Stephen vào năm 1988. Lúc đó, anh ấy đã phải ngồi xe lăn để di chuyển.
Vào những năm 1980, hơi thở của anh ấy bị ảnh hưởng nhiều hơn do bệnh tật. Anh ấy thường rất khó thở và khi bị viêm phổi trong chuyến đi đến Thụy Sĩ năm 1985, anh ấy suýt mất mạng. Các bác sĩ nghĩ rằng tốt nhất là tắt máy hô hấp nhân tạo giúp anh ta sống sót. Nhưng Jane không đồng ý và cùng chồng trở về Cambridge, nơi anh được phẫu thuật mở khí quản. Kể từ đó, anh không bao giờ nói được nữa, bắt đầu giao tiếp qua máy tính.
– Stephen Hawking và virus corona: gia đình tặng mặt nạ phòng độc được nhà khoa học sử dụng để điều trị cho bệnh nhân
Hawking qua đời tại nhà ở tuổi 76 vào ngày 14 tháng 3 năm 2018 do biến chứng của bệnh xơ cứng teo cơ một bên .
Những cuốn sách đã thay đổi mọi thứ
Trong sự nghiệp của mình, Stephen Hawking đã viết tổng cộng 14 cuốn sách, trong đó nổi tiếng và quan trọng nhất là “Lược sử thời gian”. Xuất bản năm 1988, tác phẩm sử dụng ngôn ngữ đơn giản và dễ tiếp cận để giải thích nguồn gốc của vũ trụ. Với 10 triệu bản đã được bán và bản dịch sang hơn 30 ngôn ngữ, chính nhờ cô mà nhà vật lý này đã được biết đến trên toàn thế giới.
Hướng đến đối tượng là người bình thường, “Lược sử thời gian” dựa trên thuyết Tương đối rộng và Cơ học lượng tử để trình bày một số khái niệm về không gian và thời gian. Bằng cách này, một số bí ẩn của vật lý học có thể được khám phá và giải thích.
– Stephen Hawking: Vì 'lỗi' của loài người, Trái đất sẽ biến thành quả cầu lửa sau 600 năm nữa
Xem thêm: Anh ấy tin rằng đàn ông không cần phải giúp việc nhà 'vì anh ấy là đàn ông'
Một cuốn sách quan trọng khác cho sự nghiệp của Hawking là “The Vũ trụ trong một Nutshell”. Gần đây hơn, được phát hành vào năm 2001, nó có nhiều hình minh họa hơn và ngôn ngữ thậm chí còn dễ hiểu hơn. Công trình đề cập đến các lý thuyết vũ trụ học mới, chẳng hạn như sự tồn tại có thể có của các hạt cơ bản, du hành thời gian và lỗ đen, bên cạnh thế nào là thế giới vi mô lượng tử và thế giới vĩ mô phổ quát.
Di sản của Hawking đối với khoa học
Nội dung các bài viết của Stephen Hawking đến từ các nghiên cứu và luận án khoa học mà ông đã phát triển. Nó từng dựa trên cơ học lượng tử, các nguyên tắc nhiệt động lực học và lực hấp dẫn vàđã có thể cung cấp manh mối về hành vi của vũ trụ. Dưới đây được liệt kê các lý thuyết chính của nhà vật lý.
Hawking kiểm tra cảm giác không trọng lực trong chuyến bay qua Đại Tây Dương.
– Điểm kỳ dị: Năm 1970, ông đã chứng minh được, với sự giúp đỡ của nhà vật lý người Anh Roger Penrose, chỉ ra rằng nơi không-thời gian uốn cong vô hạn, cái gọi là điểm kỳ dị, có thể được tạo ra bên trong các lỗ đen. Với suy nghĩ đó, Hawking tuyên bố rằng một trong những điểm kỳ dị này có thể là phương tiện để vũ trụ hình thành.
– Lý thuyết mới nhất của Stephen Hawking nói rằng vũ trụ không phải là vô tận
– Hố đen: Điều tra bản chất của hố đen thực tế là chuyên môn của Hawking. Đầu tiên, ông chứng minh chúng tồn tại vào đầu những năm 1970 bằng cách kết hợp thuyết tương đối rộng của Einstein với thuyết lượng tử và cơ học tổng quát, một kết quả cụ thể hơn là toán học. Quan sát này chỉ được chứng minh vào năm 2019, khi một kính thiên văn chụp được hình ảnh của một hố đen ẩn trong thiên hà Messier 87.
Kết luận thứ hai của Hawkings về những hiện tượng này là chúng không hoàn toàn tối. Được hình thành từ sự sụp đổ của các ngôi sao, lỗ đen rất nén và dày đặc. Điều này gây ra tác dụng hấp dẫn xung quanh chúng để ngăn chặn ngay cả ánh sáng từthoát khỏi chúng.
Hình ảnh đầu tiên về lỗ đen, được chụp bởi kính thiên văn Event Horizon, năm 2019.
Năm 1974, Hawking nhận ra rằng một số hiệu ứng lượng tử giúp lỗ đen có thể phát ra năng lượng, bức xạ nhiệt. Hậu quả của việc này là sự biến mất có thể xảy ra trong tương lai của những vật thể này, vì chúng đã bốc hơi theo thời gian. Phát hiện này được gọi là bức xạ Hawking.
Lý thuyết này cũng chỉ mới được chứng minh trong thời gian gần đây. Vì không thể theo dõi năng lượng của một lỗ đen thực sự, Viện Công nghệ Technion-Israel đã tạo ra một lỗ đen trong phòng thí nghiệm và trong quá trình điều tra, họ đã phát hiện ra sự hiện diện của một lượng Bức xạ Hawking.
– Stephen Hawking đã đúng trong dự đoán cách đây 50 năm về lỗ đen
Vụ nổ lớn và thăng giáng lượng tử: Năm 1982, Hawking phát triển lý thuyết về nguồn gốc của vũ trụ. Theo cô, mọi thứ sẽ trở nên vô nghĩa với vụ nổ Big Bang, mở rộng với tốc độ cực nhanh. Trong giai đoạn tăng trưởng này, thăng giáng lượng tử sẽ chịu trách nhiệm định hình không gian, thời gian và các hiện tượng tự nhiên, nghĩa là hầu như mọi thứ chúng ta là và biết.